Kiếp sau
Phan_14
- Kế hoạch nào?
- Bố trí cho anh gặp con gái tôi, kể từ buổi triển lãm đầu tiên của nó, mà tôi đã phải tốn rất nhiều tiền để tổ chức, cho đến đám cưới của anh với nó. Tất cả đều đã được tính trước, kể cả tình cảm thống thiết không thể tránh khỏi với Clara, có phải tên mới của cô ta vẫn là thế không?
- Chính bà là ngýời ðã theo dõi chúng tôi ở Châu Âu?
- Tôi và một vài ngýời bạn. Nhýng ðiều ðó thì có quan trọng gì khi kết cục vẫn là nhý thế? Các mối quan hệ của tôi cúng ðã giúp ích cho anh nhiều khi ở Louvre, đúng không?
- Nhưng thật ra bà muốn gì? Jonathan hét to.
- Trả thù, trả lại công bằng cho con gái tôi! Alice Walton gào lên.
Bà châm một điếu thuốc. Và mặc dù đã cố tỏ ra bình tĩnh, bàn tay điểm chiếc nhẫn kim cương của bà ta vẫn liên tục chà xát lên lớp vải bọc ghế bành đang ngồi.
- Giờ thì các viên xúc xắc đã được tung ra và số phận các ngýời ðã được định đoạt, hãy để tôi kể nốt cho anh nghe câu chuyện buồn về ngài Edward Langton, ngýời ðã từng là chồng của tôi.
- Chồng của bà ý? Nhýng Langton ðã qua đời từ cách đây hơn một thế kỷ rồi.
Những cơn ác mộng không thể kể cho anh nghe hết mọi chuyện. ngài Edward có hai cô con gái. Ông ấy là một ngýời hào phóng, quá hào phóng. Ngoài việc dốc hết tài nãng và gia tài của một nhà buôn tranh cho lão họa sĩ Radskin, ông ấy còn có một tình yêu vô bờ bến đối với đứa con gái lớn. ông ấy không tiếc bất cứ thứ gì cho nó, và anh không thể týởng týợng nổi ðứa thứ hai ðã phải khổ sở nhý thế nào khi không có ðýợc tình cảm của ngýời cha! Song ðàn ông bao giờ cũng chỉ hành ðộng theo ý muốn của mình, chẳng bao giờ suy nghĩ về những hậu quả có thể xảy ra. Vì sao các ngýời lại có thể ðối xử nhý vậy với chúng tôi?
- Đối xử với bà nhý thế nào? Tôi chẳng hiểu bà ðang nói gì.
- Con gái lớn của ông ấy, đứa con mà Edward yêu quý nhất, đã đem lòng yêu một chàng trai trẻ tài giỏi, một chuyên gia trong ngành hội họa. Họ không thể rời nhau, tình yêu là tất cả đối với họ. Edward đã không thể chịu đựng được khi thấy con gái xa rời ông ấy, ông ấy đã ghen tị, nhý tất cả các ông bố ðều có lúc nhý vậy, mỗi khi con cái bắt ðầu muốn bay bằng ðôi cánh của mình. Còn tôi thì chỉ mõ ðến ngày hai ðứa chúng nó ra đi. Tôi đã hy vọng cuối cùng thì Edward cũng sẽ dành nhiều quan tâm hõn cho Anna. Sau cái chết của Vladimir, chúng tôi không còn nhiều khả năng thanh toán các khỏan nợ. chỉ có việc bán bức tranh cuối cùng của ông ta mới cứu chúng tôi khỏi phá sản. chúng tôi trông đợi một số tiền khá lớn và mong tất cả những bức tranh chýa bán ðýợc mà chồng tôi ðã chất trong nhà, sau nhiều năm cũng sẽ trở nên giá trị. Nhý thế mới công bằng, Edward đã chứa chấp và cung phụng Vladimir một cách vô lý trong quá nhiều năm và điều đó đã làm tiêu tan cả sản nghiệp của chúng tôi!
* * *
Đến lượt Clara chui qua lỗ hổng mà Peter đã khoét rộng. đằng sau bức tường tất cả đều toát lên vẻ bần hàn. Đồ đạc tuềnh toàng bao gồm một chiếc bàn gỗ nhỏ, chiếc ghế mộc, một cái giýờng nhỏ trông nhý chiếc chõng tồi tàn thời chiến tranh. Chiếc bình gốm cũ đặt trên một trong ba cái giá. Cuối phòng, một tia sáng trên trên trần chiếu xuyên xuống sàn tới tận chỗ để giá tranh. Peter xông vào góc tối. anh ngẩng lên và phát hiện những mảnh ván được đóng sát trần nhà. anh kiễng chân kéo từng mảnh một ra. một luồng xám nhạt bốc lan ra chỗ giá tranh. Peter đẩy tấm cửa vừa lộ ra rồi dung hết sức của đôi tay để kéo nó lên.
Mái tóc phủ trắng bụi của anh nhô ra khỏi mái nhà nghiêng nghiêng. Anh nhìn khu výờn trải rộng xung quanh và khi nhìn thấy nhánh chính của cây dýõng ðang ðung ðýa nhè nhẹ trên máng nýớc phía dýới, anh mỉm cýời, quay vào trong.
- Clara, tôi nghĩ chúng ta vừa tìm được phòng ở thực sự của Vladimir Radskin. Chính tại nõi này ông ấy ðã vẽ bức tranh Thiếu nữ áo đỏ.
* * *
Alice Walton xoay xoay chiếc nhẫn quanh ngón tay. Mẩu thuốc của bà ta vẫn còn nhả khói trong gạt tàn, bà nóng nảy dụi tắt nó rồi lại ngay lập tức châm một điếu khác. Ngọn lửa từ que diêm buồn bã rọi lên khuôn mặt bà ta. Sự đau khổ và giận dữ hằn sâu trên từng nếp nhăn trên mặt bà.
- Thật không may, vào đúng ngày tổ chức buổi đấu giá, tên chuyên gia xấu bụng đã gởi một bức thý tới cho ngýời ðiều hành ðấu giá, hắn ta cho rằng bức tranh là giả! Cái gã đã cáo buộc điều đó và đẩy cả gia đình tôi vào cảnh phá sản chẳng phải ai khác, chính là kẻ đồng lõa đang si mê đứa con gái lớn của chồng tôi. Đó là sự trả thù đối với chồng tôi vì đã ngăn cản đám cưới của chúng. Sau đó thì anh biết rồi, chúng tôi đã sang Mỹ. Chồng tôi qua đời chỉ vài tháng sau khi chúng tôi tới đây. Ông ấy chết vì bị mất hết danh dự.
Jonathan đứng lên và býớc lại gần ô cửa kính. Chẳng có ðiều gì đáng là sự thật trong câu chuyện trên. Song ký ức về cõn ác mộng gần ðây nhất mà cả anh và Clara cùng gặp phải vẫn còn ám ảnh anh. Quay lýng về phía Alice, anh lắc lắc đầu tỏ vẻ không tin.
- Đừng làm ra vẻ không biết gì, Jonathan! Chính anh cũng từng gặp phải những giấc mộng. tôi chýa bao giờ rời bỏ hai ngýời. nỗi cãm hận là một cảm xúc khiến cho linh hồn có ðýợc sức sống mãnh liệt. tôi đã không ngừng nuôi dýỡng nó để có thể sống lại. vào mỗi thời đại, tôi đều tìm ra được các người và tìm ra cách thay đổi số phận hai người. tôi thật sung sướng làm sao khi anh là một trong những sinh viên của tôi tại Yale. Các ngýời ðã tiến thật gần tới đích. Trong kiếp đó, anh đã mang cái tên Jonas, anh đã học tại Boston và muốn đổi tên gọi của mình theo kiểu Mỹ, song điều đó chẳng có gì quan trọng cả. Suýt nữa thì anh tìm thấy Clara, trong các giấc mõ anh thấy ðýợc nó ðang ở London, song tôi ðã vừa kịp chia rẽ các ngýời.
- Bà thật điên rồ!
Jonathan bỗng thấy vò xé bởi ýớc muốn rời khỏi cái nõi ðang khiến anh ngạt thở này. Anh tiến ra cửa. Ngýời ðàn bà tóc trắng thô bạo kéo tay anh lại.
-Tất cả các nhà phát minh lớn đều có một điểm chung là biết cách tự mình tách ra khỏi thế giới bao quanh họ, để tưởng tượng. tôi đã thành công trong việc khiến cho Coralie O’Mally phát điên, và tôi đã gần nhý làm ðýợc ðiều ðó với Clara cái ngày mà tôi ðầu ðộc chết Jonas. Tôi ðã nói với anh ngay lần đầu tiên gặp nhau tại Miami. Yêu và hận chính là cách sáng tạo ra cuộc sống, thay và chiêm ngýỡng nó. Tình cảm không phải lúc nào cũng lụi tàn, Jonathan ạ. Và tình cảm luôn khiến cho các ngýời phải tái hợp.
Jonathan nhìn bà ta khinh bỉ, anh túm cánh tay bà ta và hất nó ra khỏi tay anh.
- Bà đang tìm cách làm gì, bà Walton?
- Vắt kiệt linh hồn anh và buộc anh vĩnh viễn phải rời xa Clara. Chính vì thế mà trýớc hết tôi phải khiến cho các ngýời tìm thấy nhau. Tôi đã chạm tới đích. Nếu như lần này các ngýời không thể hýởng tình yêu bên nhau, thì đây sẽ là lần cuối cùng các ngýời ðýợc sống. linh hồn của các ngýời ðã gần hết năng lượng, chúng sẽ không thể vượt qua nổi một lần chia tay nữa.
- Đó chính là mục đích của bà ý? Jonathan vừa nói vừa ðứng dậy. Bà muốn trả thù vì một điều đã xảy ra cách đây hơn một thế kỷ phải không? Cứ cho là mọi chuyện sẽ tuân theo suy luận của bà, bà sẵn sang hy sinh một trong hai cô con gái của mình vì ýớc muốn ðiên rồ ðó ý? Vậy mà bà vẫn cho rằng mình không điên sao?
Jonathan býớc thẳng ra khỏi cãn hộ mà không hề ngoái lại. khi anh býớc qua ngýỡng cửa, Alice Walton gào lên sau lýng anh.
- Clara không phải con gái ta, chỉ có Anna thôi! Và cho dù anh có muốn hay không thì anh cũng sẽ phải cýới con gái ta trong một vài ngày nữa.
* * *
- Điều duy nhất mà chúng ta có thể khẳng định được, là Radskin chắc chắn đã không làm Ngài Edward phá sản vì những chi phí của ông.
Peter ho nhẹ. không khí trong phòng hõi hãng hắc, phảng phất mùi tỏi.
- Ông ấy sống trong cãn phòng này ý? Clara ngõ ngác hỏi.
- Ít nhất thì tôi cũng thấy, khó mà phủ nhận được điều đó! Peter vừa trả lời vừa thả một viên gạch mới được dỡ ra xuống sàn.
Trong vòng một giờ, anh đã tạo được một lỗ tường hổng đủ lớn để ánh sáng từ bên ngoài có thể lọt vào rọi sáng căn phòng. Peter giõ tay chỉ lên mái lâu ðài.
- Giang sõn khép kín của Vladimir trông có vẻ giống một xà lim hõn là một phòng dành cho khách.
Peter tò mò nhìn xuống sàn nhà, màu gỗ ở đây trông rất khác so với phần còn lại của gác xép.
- Đúng là sàn chỗ này chýa từng ðýợc làm lại!
- Tất nhiên rồi! Clara tiếp lời.
Peter tiếp tục xem xét cãn phòng. Anh cúi ngýời nhìn xuống gầm giýờng.
- Anh tìm gì vậy? Clara hỏi.
- Bảng màu, bút vẽ và những tuýp màu của ông ấy. Một dấu vết nào đó.
Tôi chẳng thấy gì trong căn phòng này cả, cứ nhý ai ðó ðã muốn xóa bỏ hết mọi dấu vết về cuộc sống của Radskin ở đây.
Anh trèo lên giýờng và ðýa tay qýờ lên các tầng giá treo.
- Tôi tìm thấy cái gì đó!
Anh nhảy cẫng lên và chìa cho Clara xem một cuốn sổ màu đen. Cô thổi nhẹ lên bìa sổ, một lớp bụi dày bay tung. Peter nôn nóng lấy cuốn sổ khỏi tay cô.
- Tôi sẽ mở nó ra xem!
Từ từ thôi! Clara ngăn anh lại.
- Tôi là chuyên gia đấu giá. Và chắc cô sẽ ngạc nhiên về điều này, song tôi đã khá quen với việc phải nýõng tay khi ðụng ðến những di vật cổ xýa.
Clara lấy lại cuốn sổ trong tay anh và thận trọng mở trang ðầu tiên.
- Trong ðó có gì thế? Peter năn nỉ.
- Tôi không biết, trông nó giống như một cuốn nhật kí. Nhưng hình nhý ðýợc viết bằng ngôn ngữ Kirin
- Tiếng Nga ý?
- Thì cũng thế cả thôi!
- Tôi cũng thừa biết là thế rồi. Peter làu bàu.
- Khoan đã, còn có cả một loạt ký hiệu hóa học nữa.
- Cô có chắc không? Peter hỏi bằng một giọng lộ rõ vẻ phấn khích.
- Tất nhiên! Clara hõi tự ái.
* * *
Ngồi sau bàn giấy, François Hebrard kết thúc ngày làm việc bằng cách đọc lại bản báo cáo mà Sylvie Leroy vừa mang tới. Từ khi Jonathan về, các chuyên viên vẫn tiếp tục nghiên cứu và khám phá bí ẩn của màu đỏ.
- Cô đã liên lạc được với Gardner chưa? Ông giám đốc phòng thí nghiệm hỏi.
- Vẫn chýa, bộ nhớ ðiện thoại của anh ta ðã hết chỗ, chẳng có cách nào để nhắn thêm vào đó được nữa, mà anh ta cũng chẳng trả lời email.
- Bao giờ thì buổi đấu giá bắt đầu? ông Hebrard hỏi.
- Ngày 21, tức là bốn hôm nữa.
- Sau tất cả những nỗ lực chúng ta đã bỏ ra, nhất định phải báo bằng được tin này cho anh ta biết. Cô muốn làm gì cũng được, miễn là tìm cho ra anh ấy cho tôi.
Sylvie Leroy býớc ra khỏi phòng và đi về phía xưởng vẽ của cô. Cô biết một người có thể tìm được Jonathan Gardner, nhưng cô không hề muốn gọi cho người ấy chút nào. Cô vớ lấy túi và tắt đèn trên bàn làm việc. trong hành lang, Sylvie gặp vài đồng nghiệp song cô bực mình tới mức chẳng buồn nghe tiếng họ chào. Cô býớc qua cổng kiểm soát và tra thẻ của mình vào máy đọc. cánh cửa lớn mở ra tức khắc. Sylvie Leroy bước lên cầu thang dẫn ra phía ngoài. Bầu trời rực rỡ, không khí bắt đầu có hương vị mùa hè. Cô băng qua sân bảo tàng, ngồi xuống một băng ghế và tận hýởng vẻ ðẹp của khung cảnh xung quanh. Kim tự tháp Pei phản chiếu những tia nắng chiều đỏ rực tới tận mái vòm của phòng trýng bày Richelieu. Cô nhìn hàng ngýời dài dằng dặc ðang chờ tới lýợt tham quan, trông nhý một dải ruy bãng kéo dài trýớc sân bảo tang. Làm việct rong một không khí mang đậm nét cổ tích như ở đây quả là giấc mõ mà cô không bao giờ muốn tỉnh dậy. cô nhún vai thở dài và bấm số di ðộng.
* * *
Dorothy đã trải khăn lên chiếc bàn nhỏ ngoài sân. Họ ăn tối sớm để sáng mai đi London. Công nhân của hãng vận chuyển Dalaye Moving sẽ có mặt ở phòng tranh ngay đầu giờ sáng để chuẩn bị mang Thiếu nữ áo đỏ đi. Peter và Clara sẽ được xếp chỗ ngồi sau chiếc xe hòm bọc thép và được hộ tống tới tận sân bay Heathrow. Năm bức tranh của Vladimir sẽ được mang đi trong tầng hầm của chiếc Boeing 747 của hang British Airways tới tận Boston. Một chiếc xe bọc thép khác chờ sẵn tại sân bay Logan. Ngày mai khi ra đến London, Peter sẽ chụp các trang viết tay trong cuốn sổ của Vladimir và gửi qua thý ðiện tử tới một ðồng nghiệp ngýời Nga nhờ anh ta dịch giúp ngay lập tức. anh rót thêm một tách cà phê cho Clara, mỗi ngýời theo ðuổi một ý nghĩ riêng và họ hầu nhý chuyện trò rất ít kể từ đầu bữa ăn.
- Hôm nay anh nói chuyện với anh ấy chưa? Clara hỏi, phá vỡ bầu không khí yên lặng.
- Lúc này là 7 giờ sáng ở Boston, có lẽ Jonathan vừa mới dậy thôi. Lát nữa tôi sẽ gọi điện cho cậu ấy. tôi hứa với cô.
Điện thoại Peter rung bần bật trên bàn.
- Cô có tin vào thần giao cách cảm không? Tôi tin chắc là cậu ta gọi đấy. Peter vui vẻ nói.
Peter, Sylvie Leroy đây. Tôi có thể nói chuyện với anh được không?
Peter xin lỗi Clara và đi ra chỗ khác. Nữ chuyên viên của C2RF bắt đầu ngay một bản báo cáo chi tiết với anh.
- Chúng tôi đã phân tích thành công một số chất cấu tạo nên các hạt màu. Thành phần chính làm từ xác rệp thýờng ðýợc tìm thấy trên cây lê. Chúng tôi hoàn toàn không nghĩ tới điều này, vì thông thýờng ðây là một loại màu nhuộm rất - Chúng tôi đã phân tích thành công một số chất cấu tạo nên các hạt màu. Thành phần chính làm từ xác rệp thýờng ðýợc tìm thấy trên cây lê. Chúng tôi hoàn toàn không nghĩ tới điều này, vì thông thýờng ðây là một loại màu nhuộm rất đẹp nhưng không bền, và chúng tôi vẫn chýa thể hiểu nổi nhà danh họa của anh ðã làm thế nào để nó không hề phai sau nhiều năm tháng như vậy. song dù sao thì những kết quả phân tích cũng vẫn khẳng định chắc chắn điều đó. Chúng tôi cho rằng bí ẩn của bức tranh nằm ở lớp sơn phủ mà Radskin đã sử dụng. Chúng tôi vẫn chýa thể tìm ra đó là chất gì, song những tính chất của nó thì có vẻ rất đáng chú ý. Nếu anh muốn biết, theo ý kiến cá nhân của tôi thì có vẻ nhý nó ðóng vai trò màng lọc, giống nhý một lớp phim trong suốt có tác dụng chhe chắn cho những lớp màu bên dýới. Chúng tôi đã phát hiện ra những mảng tối rất mờ trên tấm phim chụp bức tranh, mặc dù không phải tất cả những ngýời trong phòng thí nghiệm đều đồng tình với nhau về điểm này. Bây giờ thì anh nghe kỹ đây, chúng tôi đã có những phát hiện rất quan trọng. Radskin cũng đã sử dụng màu đỏ Adrinople, tôi sẽ không trình bày chi tiết với anh công thức của nó, anh chỉ cần biết màu đó được pha chế từ thời Trung cổ. để có được màu đỏ tươi và bền ngýời ta trộn màu với mỡ, nýớc tiểu và máu súc vật.
- Cô nghĩ rằng ông ta ðã cắt cổ một con chó ý? Peter ngắt lời. nếu cô không phản ðối, tôi sẽ tránh nói về chi tiết này trong buổi ðấu giá.
Anh nhầm rồi, Vladimir ðã không làm hại tới một con ruồi. tôi nghĩ Radskin đã pha chế màu đỏ của mình bằng những thứ mà ông ta có sẵn, và các kết quả ADN khẳng định điều đó, chúng tôi đã tìm thấy máu ngýời trong các hạt màu.
Mặc dù rất choáng váng, song trong giây lát Peter týởng rằng cuối cùng thì anh cũng đã tìm được cách để xác thực bức tranh. Nếu như nhà danh họa đã dung chính máu mình, thì chỉ cần so sánh các xét nghiệm ADN, song sự phấn khích vừa thoáng xuất hiện đã vội tan nhý bong bóng, than thể của Vladimir giờ ðã trở thành cát bụi, chằng còn bất cứ mẫu nào khả dĩ cho phép tiến hành so sánh ADN.
- Thế còn phát hiện quan trọng tiếp theo là gì? Peter lo lắng hỏi.
- Một điều rất lạ lùng, đó là sự xuất hiện của Réalga, một màu hoàn toàn không cần thiết và lẽ ra Vladimir chẳng bao giờ cần dùng tới nó.
- Vì sao? Peter ngạc nhiên hỏi.
- Vì màu đỏ đó hoàn toàn bị lu mờ bởi các sắc đỏ khác và cũng vì nó chứa rất nhiều độc tố từ sunfuric thạch tín.
Peter nghĩ tới mùi tỏi mà anh đã ngửi thấy khi thò đầu qua lỗ hổng trong tường. đó quả là mùi đặc trưng của loại chất độc này.
- Chất Réalga thuộc nhóm độc dược dung để sản xuất thuốc diệt chuột, và nếu nhý hít phải nó thì chẳng khác nào cố tình tự vẫn.
- Cô có thể gửi cho tôi bản cáo này tới văn phòng của tôi ở Boston được không?
- Tôi hứa với anh sẽ gửi ngay, với một điều kiện.
- Cô muốn gì cũng được!
- Anh đừng bao giờ gọi điện cho tôi nữa.
Rồi Sylvie Leroy đột ngột ngắt máy.
* * *
Mặt trăng bắt đầu ló lên trên đỉnh những ngọn đồi.
- Đêm nay trăng sẽ tròn. Peter vừa nói vừa ngẩng lên nhìn trời.
Nhìn thấy vẻ mặt buồn rýời rýợi của Clara, anh ðặt tay lên vai cô.
- Chúng ta sẽ tìm ra giải pháp, Clara ạ!
- Tôi nghĩ rằng tất cả chúng ta nên dừng lại,cô mõ màng nói. Tôi sẽ ngồi tù bao lâu cũng ðýợc, nhýng sau ðó tôi sẽ ði tìm anh ấy.
- Cô yêu cậu ấy đến thế ư?
- Tôi e là còn hõn thế nhiều. Cô nói thêm và ðứng dậy.
Clara cáo lỗi vì cảm thấy quá mệt mỏi. anh tiễn cô ra tận cửa bếp rồi quay trở lại bàn để tận hưởng bầu không khí êm dịu của buổi tối. đã gần nửa đêm, ánh đèn trong phòng Clara đã tắt và Peter trở lại phòng mình để chuẩn bị đồ đạc. Đến lýng chừng cầu thang anh quay lại và đi về phòng làm việc. Một vài giây sau, anh đi lên tầng xép, ngồi vào chiếc ghế cũ và nhẹ nhàng đặt Thiếu nữ áo đỏ lên giá vẽ của Vladimir Radskin.
- Thế là nàng đã trở về đúng chỗ của mình. Anh thì thầm với bức tranh trong bóng đêm hiu quạnh.
- Đây quả là một món quà tuyệt đẹp đối với Vladimir. Hôm nay đúng là ngày mất của ông ấy. Tiếng Clara thì thào sau lýng anh.
- Tôi không nghe thấy tiếng chân cô. Peter nói mà không quay lại.
- Tôi biết anh sẽ lên ðây.
Mặt trãng vẫn lên cao dần trên bầu trời và ánh trãng bắt ðầu rọi vào phòng qua ô cửa sổ trên mái. Bỗng nhiên tất cả mọi vật được bao phủ bởi một lớp sáng màu xanh ánh bạc. Ánh trăng chiếu thẳng vào bức tranh và thấm dần vào lớp sõn phủ trên bề mặt. chầm chậm, dýới ánh nhìn sửng sốt của Peter và Clara, một khuôn mặt từ từ hiện lên dýới mái tóc dài của Thiếu nữ áo ðỏ. Mặt trãng tròn vẫn tiếp tục lên dần trên bầu trời,trăng càng lên cao bao nhiêu, ánh trăng càng soi tỏ bấy nhiêu hình ảnh trong tranh. Đến nửa đêm, khi mặt trăng đã lên tới đỉnh, chữ kí của Vladimir dần dần hiện ra ở góc tranh. Peter nhảy ra khỏi ghế ngồi và siết chặt Clara trong vòng tay.
- Nhìn kìa! Clara nói và trỏ tay về phía bức tranh.
Khuôn mặt hiện ra rõ nét dần, thoạt tiên là đôi mắt, rồi sống mũi, má và cuối cùng là đôi môi nhỏ xinh. Peter nín thở., anh hết nhìn Clara rồi lại nhìn Thiếu nữ áo đỏ: các nét của họ giống nhau như đúc. 150 năm về trước, Vladimir Radskin đã hoàn thành tác phẩm đẹp nhất cuộc đời ông, rồi lịm dần đi trên chiếc ghế này khi đêm trở sáng. Mặt trăng bắt đầu xuống dần và khi ánh trăng bắt đầu biến mất trên lớp sõn phủ, khuôn mặt cũng nhý chữ kí của nhà danh họa cũng ngay lập tức biến mất nhý bị xóa ði khỏi bức tranh. Peter và Clara chia tay nhau sau khi ðã ở gần hết một đêm dài đối diện với bức tranh trong căn phòng của nhà danh họa. trời vừa sáng họ đã gặp nhau. Sau khi chất hết hành lý lên xe và đặt bức tranh vào trong cốp xe, Peter gọi điện cho Jonathan nhưng không được.
- Chịu thôi! Cậu ấy vẫn còn ngủ.
- Đến London chúng ta sẽ thử lại. Nếu vẫn không được thì ra đến sân bay sẽ gọi tiếp.
- Nếu cần thì tôi sẽ chui vào tận buồng lái máy bay để gọi, Peter nói thêm.
* * *
Họ đến phòng tranh lúc 9 giờ sáng. Trýớc khi mở lớp cửa sắt, Clara ðýa mắt liếc nhanh qua lớp kính lấp lánh ánh mặt trời của quán cà phê. một lát sau, các nhân viên vận chuyển ðóng nắp chiếc két bảo mật chứa Thiếu nữ áo ðỏ. Đến trưa, chiếc xe thùng bọc thép của hãng Delahaye rời khỏi phố Albermarle, theo sau là một xe cảnh sát tháp tùng. Clara ngồi ở phía trýớc, Peter ðýợc xếp một chỗ gần bức tranh ở thùng xe phía sau.
- Sóng di động không lọt được vào đây. một nhân viên vận chuyển nói với Peter khi anh định dùng điện thoại di động. Tất cả các thành xe đều bọc thép và chịu lửa.
- Đến ngã tý tới tôi có thể xuống xe vài phút ðýợc không? Tôi cần gọi ột ngýời bạn.
- Tôi nghĩ là không ðýợc, thýa ông. Ngýời ðội trýởng mỉm cýời trả lời anh.
Xe dừng lại trên ðýờng bãng, dýới bụng chiếc Boeing 747. Peter kí nãm phiếu giao hang. Những tờ phiếu này nghiễm nhiên biến anh, kể từ giờ phút này cho tới buổi ðấu giá, trở thành ngýời giám hộ chính thức cho các tác phẩm cuối cùng của Vladimir. Kể từ giờ trỏ đi, anh sẽ chịu trách nhiệm hoàn toàn về các bức tranh. Clara và anh tiến về phía cầu thang thoát hiểm của ngăn chứa hành lí dýới bụng máy bay. Peter ngýớc nhìn lên phòng đợi nơi các hành khách của chuyến tới đang ngồi chờ đến giờ lên máy bay.
- Dù sao thì cũng còn khá hõn là bay cùng với vài ðứa trẻ con!
- Chúng ta sẽ gọi cho Jonathan ngay khi ðến Boston. Clara nói.
- Không, chúng ta sẽ gọi cho cậu ấy từ trên ðó. Peter nói và chỉ tay lên trời. Rồi anh býớc lên thang.
* * *
Jonathan đã ngủ rất ít. Khi ra khỏi buồng tắm, anh nghe thấy tiếng býớc chân của Anna ðang ði lên xýởng vẽ. anh khoác một chiếc áo choàng bông và ði luôn xuống bếp. tiếng chuông ðiện thoại reo vang. Anh nhấc ống nghe trên týờng và lập tức nhân ra giọng nói của Peter.
- Cậu biến ði ðâu thế? Jonathan hỏi, tớ tìm cách liên lạc với cậu hai ngày nay mà không được!
- Thế giới này đảo lộn mất rồi. tớ đang ở độ cao 10000m trên Đại tây dương.
- Cậu đã lên đường ra hòn đảo hoang của cậu rồi đấy à?
- Vẫn chýa ðâu, anh bạn thân mến ạ, tớ sẽ giải thích với cậu sau. Có một tin vui lớn muốn báo với cậu, nhýng tớ sẽ chuyển máy cho cậu nói chuyện với một ngýời trýớc ðã.
Peter đưa điện thoại cho Clara. Khi nghe thấy tiếng cô, Jonathan ghì chặt ống nghe vào tai mình.
- Jonathan, chúng ta có bằng chứng rồi! em sẽ kể cho anh nghe mọi chi tiết khi nào đến nơi, thật không thể tin được. chuyến bay của em sẽ tới sân bay Logan vào lúc năm giờ chiều.
- Anh sẽ chờ hai người ở sân bay. Jonathan nói và bỗng cảm thấy mọi mệt mỏi tan biến.
Em rất muốn gặp anh ngay, nhýng ðến sân bay em và Peter sẽ phải ði cùng ðội bảo vệ. bọn em sẽ phải theo các bức tranh tới tận phòng chứa két an toàn của hãng Christie’s. em đã đặt một phòng tại khách sạn Four Seasons, anh hãy đến gặp em ở đó, em chờ anh trong sảnh vào lúc 8 giờ tối.
- Và anh hứa sẽ đưa em đi dạo dọc bờ sông cạnh khu cảng cũ. Buổi tối khung cảnh ở đó tuyệt đẹp. Rồi em sẽ thấy.
Clara quay ra ô cửa kính của máy bay.
- Em nhớ anh lắm Jonathan ạ!
Cô trả máy cho Peter, anh chào bạn rồi cất điện thoại vào ngăn dưới thành ghế ngồi. Jonathan gác ống nghe lên týờng, Anna cũng bỏ ðiện thoại trong xýởng vẽ. cô lấy ðiện thoại di ðộng, lại gần cửa sổ và bấm máy gọi ði Cambridge. 15 phút sau, cô ra khỏi nhà.
* * *
Cô tiếp viên býớc vào khoang phát phiếu nhập cảnh cho hành khách. - Cô không muốn Jonathan tới gặp chúng ta rồi cùng về bằng xe an ninh ý? Peter hỏi.
- Tôi ðã sẵn sàng chờ anh ấy 10 năm, thì cũng phải cố gắng výợt qua chút thời gian ngắn ngủi chỉ ðể lên phòng khách sạn một chút. Anh trông thấy bộ dạng tôi rồi đấy.
Nhờ xe cảnh sát tháp tùng, chỉ chýa ðầy 20 phút họ ðã vào tới thành phố. Khi bức tranh cuối cùng được đưa vào két, Clara lên ngay một chiếc taxi về khách sạn. Peter gọi xe khá để về nhà cất hành lý và lấy chiếc xe Jaguar Trýớc ðó anh ðã nhờ Jenkins cho ngýời lái xe của khu nhà tới sân bay lái chiếc Jaguar của anh về.
Trên ðýờng ði anh gọi ðiện cho ngýời bạn anh ðã nhờ dịch giúp cuốn sổ của Vladimir. Anh ta đã làm việc cả ngày lẫn đêm trên những trang giấy viết tay và vừa mới gửi cho anh qua thý ðiện tử phần ðầu tiên của bản dịch. Phần còn lại, chủ yếu toàn các công thức hóa học, anh ta sẽ cần một ngýời hiểu biết nhiều hõn về ngành này giúp ðỡ. Peter chân thành cảm õn bạn. Chiếc taxi ðã về đến khu nhà. Anh chạy vội qua sảnh, tảng lờ ánh mắt của ngýời gác cổng rồi nôn nóng ðứng dậm chân trong thang máy. Vừa vào ðến nhà, anh vội vã bật máy tính và in ngay bản dịch ra giấy.
Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian